Thuật chép sử Người Hung

Thuật ngữ "người Hung" đôi khi còn được sử dụng để miêu tả những người không có gì liên quan về mặt lịch sử để các nhà sử học có thể coi là "người Hung thật sự".

Vào ngày 27 tháng 7 năm 1900, trong thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn tại Trung Quốc, Hoàng đế nước ĐứcWilhelm II đã ban huấn dụ cho tướng sĩ trấn áp thẳng tay quân khởi nghĩa:[23]

Hãy đễ bọn tù binh chịu ơn huệ của các Khanh. Chỉ giống như người Hung hàng nghìn năm trước, dưới sự lãnh đạo của vua Attila, đã có được tiếng tăm bằng giá trị mà mãi mãi trường tồn với họ, do đó có lẽ tên gọi của nước Đức sẽ được nhớ tới tại Quốc với lý do tương tự, sao cho không có người Trung Quốc nào có đủ can đảm để thậm chí là liếc mắt vào Đức.
— Wilhelm II

Với chỉ dụ này, Hoàng đế Wilhelm II đã dẫn tới ký ức về người Hung trong thế kỷ 5, cùng với pickelhaube (một dạng mũ cát có chóp nhọn) mà các lực lượng vũ trang Đức đã đội cho tới năm 1916, là sự gợi nhớ về các loại mũ cát của người Hung cổ đại (và cả của người Hungary). Lúc ấy, chủ nghĩa dân tộc Đức đang phát triển cực thịnh cùng với chủ nghĩa đế quốc Đức, các nước chủ nghĩa đế quốc láng giềng là Anh, PhápNga đều phải lo sợ. Thấy nước Đức ngày càng hùng mạnh đến mức nguy hiểm, nhà văn người Anh là Rudyard Kipling đã khởi đầu việc xúc phạm người Đức là "người Hung".[23] Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, người Anh cũng luôn ví von người Đức với "người Hung". Việc sử dụng này được ủng hộ bằng các tranh cổ động của phe Entente trong suốt chiến tranh, và nhiều phi công của Royal Flying Corps (RFC) đã nói tới kẻ thù của mình như là bọn "người Hung". Việc sử dụng này lại xuất hiện trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.